Kiều thủ (橋手) Vịnh Xuân quyền

Hệ thống quyền pháp của Vịnh Xuân quyền xuất phát từ Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến mà kỹ pháp đặc trưng của nó là hệ thống kiều thủ (phát âm theo âm Quảng Đông là Kìu Sẩu, hàm nghĩa “tay bắc cầu” hay “tìm cầu nối giữa công và thủ”), là đoạn xương cánh tay trước từ cổ tay đến cùi chỏ dịch nghĩa sang tiếng Anh là the Bridge Hand Techniques hay the Bridge Arm Techniques.

Hầu hết các võ phái tại miền Nam Trung Hoa bắt đầu từ bờ phía Nam sông Trường giang (Dương Tử Giang) trở xuống, tức là bao gồm các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam,... đều có nguồn gốc từ ngôi chùa Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến, do vậy các hệ thống kỹ thuật đòn tay đều dùng chữ Kiều và bộ tấn dùng chữ Mã bộ ám chỉ bộ chân di chuyển và gọi tắt là Kiều Mã (Kiều phải chắc chắn, Mã phải vững vàng) do vùng miền Nam Trung Hoa sông nước nhiều và thường đánh nhau trên ghe, thuyền nên phải trụ bộ một chỗ đánh.

Trong Thiếu Lâm Hồng gia thường có câu: "ổn mã ngạnh kiều" 穩馬硬橋, "trường kiều đại mã"长橋大馬, "đoản kiều tiểu mã" 短橋小馬, tạm dịch là ngựa vững cầu cứng, ngựa lớn cầu dài, ngựa nhỏ cầu ngắn, nghĩa là bộ tấn vững chãi đòn tay rắn chắc, đòn tay dài với bộ tấn rộng thấp, đòn tay ngắn với bộ tấn nhỏ hẹp và cao (cao mã).

Về chiến đấu pháp trong Thiếu Lâm Hồng gia lại có câu: xuyên kiều tranh mã xích thân trửu 穿橋爭馬尺身肘, nghĩa là chủ về lối đánh trụ bộ (một chỗ) cận chiến và nhập nội nhiều hơn, xuyên kiều nghĩa là xuyên tay và len tay vượt trên tay đối phương, "tranh mã" nghĩa là phải dùng chân nêm chặt bộ vị (thế tấn) của đối phương, xích thân trửu nghĩa là thân và cùi chỏ (trửu) phải luôn áp sát đối phương.

Trong Bạch Mi quyền lại có câu chiến đấu pháp: hữu kiều – kiều thượng quá, mậu kiều – tự chế kiều 有橋 – 橋上過, 瞀橋 – 自製橋 nghĩa là có cầu (hữu kiều, gặp kiều thủ đối phương bắc cầu) thì phải leo lên cầu mà vào nghĩa là gặp tay địch nhân thì phải dùng tay của mình chặn ở trên mà tiến vào mình đối phương (kiều thượng quá), nếu không có kiều rõ ràng (2 bên có khoảng cách chưa bên nào ra tay trước) - (mậu kiều) - thì phải đưa tay bắc cầu mà vào (tự chế kiều).

Các bộ quyền của Nam Thiếu Lâm (hay Nam Quyền) thường dùng 2 thế tấn căn bản trong các bài quyền là tứ bình bát phân (Sei Ping Baat Fahn 四平八分) còn gọi là tứ bình mã (Sei Ping Ma 四平馬) tức là Trung bình tấn, và thế tấn thứ hai là Nhị tự kiềm dương mã (Yee Gee Kim Yeung Ma – Yih Jih Kìhm Yèuhng Máh 二字鉗(箝/拑)陽馬 – 二字鉗(箝/拑)陽馬) gồm đại kiềm dương mã 大鉗(箝/拑)陽馬 và tiểu kiềm dương mã 小鉗(箝/拑)陽馬 (dương đây chúng ta phải hiểu nghĩa Hán Việt là giống đực) (xem kiềm dương tấn).

Trong Nam Quyền (Hồng Gia quyền, Bạch Mi quyền, Vịnh Xuân quyền, Bạch Hạc quyền) thường dùng chữ kiều mã 橋馬 để nhấn mạnh tầm quan trọng của kiều thủ và mã bộ khi giao thủ với đối phương không cho đối phương niêm kiều, triệt kiều, phá mã.

3 bài đầu tiên (Tiểu niệm đầu, Tầm kiều, Tiêu chỉ) là những giai trình luyện tập các động tác kiều thủ căn bản để tiến vào bài Mộc nhân trang thi triển hiệu quả các động tác kiều thủ.